Bài diễn thuyết của Đức thầy Nguyễn Bá Tòng
Như đã đưa tin trên các báo, chiều hôm Chủ nhật trước đây, ở Nam Định, đức Giám mục Nguyễn Bá Tòng đã diễn thuyết bằng tiếng Pháp về vấn đề "Ta phải đem tuổi 20 để làm gì? Cái ý nghĩa của sự sống."
Đức cha đã nói trong ngót một tiếng đồng hồ, giọng điệu vừa thiết tha vừa đằm thắm, lời lẽ đã mạnh mẽ lại thâm trầm, làm cho thính giả hết mọi người đều khâm phục và cảm động lắm.
Sau mấy lời mở đầu, Đức cha kể đến câu chuyện sau này: "Có một người thủy thủ đã già, trọn đời những quăng chài ném lưới, những rẽ sóng ra khơi, ngày đêm đã ở mãi trên một chiếc thuyền buồm nhỏ. Bữa nọ, lại gặp phải cơn giông tố phũ phàng, lão đã hết sức lựa chiều chống chọi cùng sóng gió, thế mà nhìn qua đám sương mù bao tỏa, lão bỗng nhận thấy lù lù một mô đá nổi, chỉ còn cách mũi thuyền mấy thước nữa mà thôi. Lần ấy là lần thứ nhất tay lão phát run, trong bụng lão không còn tin cậy vào cái tài nghề của mình nữa. Cứ đưa thuyền thẳng vào chỗ chết ấy chăng ? Không, hai tay lão nắm vững bánh lái, thu hết tinh lực, lựa đường lão đưa ngay được con thuyền tránh khỏi. Nhưng, qua cơn nguy hiểm ấy, lão tự biết mình không còn thể xông pha được trên mặt bể như xưa.
Vào tới bờ, lão về thẳng túp lều tranh gọi đứa con trai cường tráng, quả cảm và thông minh hơn cả trong các con lão, mà bảo nó đi theo mình. Hai cha con lại cùng nhau ra bờ bể, xuống thuyền, kéo buồm lên. Mọi việc đã xuôi, người cha cầm lấy tay lái, khác nào một ông vua cầm hốt ngọc, trao sang cho con mà bảo rằng: "Này đên lượt con vào nghề, từ đây cha không còn thể làm gì được nữa rồi."
Người con trai mắt cứ đăm đăm trông làn nước mặn, như muốn thăm dò cho thấy những sự bí mật ẩn náu dưới các làn sóng dập dờn, lại chưa từng biết có sự nguy hiểm làm sao, anh ta cứ lái cho con thuyền mong manh ra tận tít mãi ngoài bể khơi, bao la vô hạn. Buổi đầu, thấy mình xông pha được như thế, anh đã tự cao, khinh thường những làn sóng đang âm thầm sôi nổi. Không ngờ đang lúc trời yên lặng bỗng nổi ba đào, mặt bể sóng cuộn lên như từng giãy núi lớn chập chồng, chuyển động. Mây kéo đen mịt chân trời, gió giật từng cơn dữ dội, mưa sa như nước trút, chớp đã nhoáng lóe mắt, lại thêm sấm ran vang dậy vùng trời. Thấy vậy, lão thùy thủ già vội bảo con phải hạ ngay buồm xuống, nhưng nào còn có biết nghe theo! Anh ta vẫn đứng tỳ hai tay vào bánh lái, chăm chú nhìn xem những cảnh tượng lạ lùng đang phô bày ra trên trời dưới nước, mê mải, say sưa, như một viên chiến tướng đã nắm chắc cuộc toàn thẳng trong tay.
Một ngọn sóng nâng bổng chiếc thuyền lên rồi ném xuống, làm cho hai cha con ngã dập vào nhau, đoạn lại một làn sóng khác ập luôn đến nữa. Chỉ thiếu chút nữa là chiếc thuyền mong manh kia chìm nghỉm, nhưng lão thủy thủ già đã vội vàng nhồm dậy, hạ ngay buồm xuống được. Từ đấy cả hai cha con phải hết sức bắt tay chèo, lựa theo sóng gió mà đưa con thuyền đi. Họ phải khó nhọc chèo lâu lắm, mãi về chiều sóng gió mới yên, mưa tạnh, trời quang, bấy giờ mới lại kéo buồm lên được để vào bờ. Khi đã cập bến, bảo con rằng: Bây giờ ta hãy về nhà, rồi mai sẽ lại ra đi nữa. Con thực có can đảm lắm; nhưng con ơi! Con chưa thể bỏ rời cha già mà một mình xông pha trên mặt sóng được đâu."
Câu chuyện chẳng có chi là dị kỳ đó, chính là cái hình ảnh của đời người. Người già mỗi ngày một thấy đến gần cái lúc yếu mệt, chẳng còn đủ sức mà cầm tay lái. Còn các bạn trẻ, lại chưa biết những nỗi khó khăn nguy hiểm của cái biển luôn luôn có giông tố, là cuộc đời này; lại vẫn tưởng đâu rằng cứ xông liều vào các sự hiểm nghèo, là tránh được nó và mới có thể đưa mình đến chỗ toàn thắng. Các bạn phải nghe theo những người chỉ muốn làm ơn làm ích cho minh, những người vừa có lòng thương yêu quí mến các bạn mà lại đã có từng trải, có lịch duyệt nhiều. Các bạn phải ghi nhớ câu phương ngôn này: "Nếu đầu xanh mà đã từng biết, nếu già nua mà còn sức khả kham" thì việc đời không có gì là khó cả.
Vậy để tôi xin nói những điều tôi biết cho các bạn nghe. Nhà đại danh sĩ Lacordaire xưa kia, đã bảo các thiếu niên rằng: "Nếu các anh không biết dùng tuổi 20 để làm việc gì, thì hãy đưa nó lại cho tôi." Hôm nay, tôi đây, tôi không xin cái tuổi 20 của các bạn, tôi chỉ xin đem một vài lời mà chỉ dẫn cho các bạn biết cách phải ăn ở thế nào, để cho tuổi trẻ của mình chẳng những có lợi ích cho bản thân và cho gia đình, mà lại có lợi ích cho tổ quốc ta là cõi Đông Dương này nữa.
Nghe câu chuyện tôi vừa kể, các bạn hầu đã biết rằng: Muốn trở nên một tay thủy thủ giỏi, can đảm không đủ, còn phải thông thuộc chỗ bể sâu nông, biết xem bể thế nào là sắp bình yên hay sóng gió. Muốn làm một người thật xứng đáng là người, nếu chỉ có lòng ước muốn ngay lành và bụng dạ can đảm, hăng hái, cũng chưa đủ, còn phải biết rõ ý nghĩa của cuộc đời là thế nào nữa mới được.
Không bao giờ tôi quên buổi tôi được gặp một cậu học sinh Việt Nam, ở trong một bệnh viện. Thấy cậu ngồi cúi xem một quyển sách, có lẽ là một quyển sách nhảm, mà hai mắt đang đẫm lệ, nên tôi đến gần bên cất tiếng hỏi rằng: Đang cái tuổi vui cười sao cậu lại khóc? Cậu mới nhận được tin buồn chăng? Hoặc vì chạnh lòng lữ thứ mà nhớ quê hương chăng? Hay là vì một nỗi gì khác nữa? Cậu ta đáp lại rằng: Thưa cha không, tuyệt nhiên không phải vì những lẽ cha đã hỏi đó mà con buồn. Con buồn vì xét ra con chẳng biết bởi đâu mà mình đã sinh ra, sinh ra sẽ trở về đâu, trên mặt đất này để làm gì, rồi sau này. Bấy nhiêu điều con đã không biết một chút gì cả thì còn làm sao mà dìu dắt cho kẻ khác, mà biết đường ăn ở để giúp đỡ được cho nhà cho nước. Thưa cha là đấng thay mặt Thiên Chúa, xin cha chỉ bảo cho con.
Cái cơn giông tố của cuộc đời là vậy đó, các bạn đã nhận thấy chưa? Đã 20 tuổi mà không biết mình bởi đâu mà đến và rồi sau sẽ đi đâu, thì có khác gì một người lữ khách lạc đường trong một thành phố lớn, đi bơ vơ chẳng biết về đâu. Phải, tôi cũng rõ rằng trong hàng thanh niên, cũng có người chỉ biết sống qua ngày, chẳng hề tìm xét cho hiểu cái bí quyết của cuộc đời. Thực đáng thương thay cho cái hạng người ấy! Tới lúc cuộc đời của họ đã xế bóng, nếu họ còn đôi chút lương tâm mà biết hối, tất họ phải tự nhủ lòng rằng: Cái đời quí trọng của ta, ta bỏ phí hoài, ta đã sống không mục đích, không lợi ích cho mình, cho xã hội. Sống như thế, thì sống có ích gì?
Lại cũng có người muốn đem cái vấn đề to tát ấy mà nhờ khoa học giải quyết cho. Nhưng, khoa học chỉ biện luận đến các việc mắt thấy tai nghe, các việc có thể tiếp xúc đến giác quan của loài người được mà thôi. Mà lại, ngay trong những việc ây, xưa nay khoa học chẳng đã sai lầm luôn mãi, biết bao nhiêu điều đã bàn quanh giải quẩn, tiền hậu bất nhất đó ư? Bởi vậy mà không bao giờ khoa học có thể giúp cho người ta thấu hiểu được cái bản nguyên và cái số phận của loài người, biết rõ được cách thế phải ăn ở làm sao cho hợp đạo làm người, phân biệt sự lành với sự dữ, sự chân chính với giả trá.
Thấy khoa học không thể giúp được về phạm vi luân lý và tinh thần, có nhiều người lại quay sang với Triết học, nhất là với khoa siêu hình. Buổi đầu mới xem vào sách vở của mấy nhà trước tác nào đó người ta tưởng đâu là đã tìm ra những quy tắc cho cuộc sinh hoạt, thấy được những điều chỉ bảo thích nghi với bản tính, với chí nguyện, với sự khát vọng chân lý của mình. Nhưng rồi ra khi đã xét nghiệm kỹ càng, người ta mới biết rằng: cũng không thể quá tin cậy vào mấy nhà tư tưởng, mấy vị thần trong làng Triết học kia được. Chẳng qua họ cũng là loài người, mà đã là người, thì cũng phải đên tiêu ma, các thuyết họ xướng ra rồi cũng có ngày mai một. Vả chăng, xưa nay đã có biết bao nhiêu thuyết xướng tên phản trái hẳn nhau, các nhà Triết học cũng không khác gì mấy ông thày thuốc khốn nạn, vẫn phải thú nhận rằng: dù đã học nhiều xem rộng, mà thường gặp lắm chứng bệnh chẳng còn biết đối chứng lập phương làm sao.
Cả đến những sự người ta tin tưởng, những đạo của người ta theo, cũng không khác gì Khoa học và Triết lý: đã chia trăm rẽ nghìn, mỗi nơi một cách, mỗi người một phách, lại luôn luôn thay đổi tùy theo với trào lưu của dư luận. Cũng là bởi loài người bày đặt ra, nên các đạo ấy chỉ biết nguyên những điều mà loài người đã biết, thường thấy có sự sai nhầm và phản trái hẳn nhau. Chẳng phải nói xa xôi tận bên Âu bên Mỹ làm gì, chỉ nói ngay cõi Á đông này, đã có biết bao nhiêu sự chia rẽ trong các môn phái. Cùng một đạo Nhân Thần (Shintoïsme), mà ở Nhật Bản với mấy miền bên Trung Hoa, tin giữ mỗi nơi một khác; cùng một đạo Phật, ở chính bên Ấn độ với ở Cao Miên, hay là ở Bắc kỳ này, đã sai lạc nhau quá lắm. Nói ngay sự thờ cúng ông bà ông vải, trên giải đất Việt này đang còn thịnh hành, mà ở các miền khác, ngay cả những miền tiếp cận với mình, người ta đã thờ ơ lạnh nhạt rồi.
Trước cái tình thế ấy, hẳn các bạn đã nhận thấy rằng: loài người không thể ra khuôn đặt mẫu cho cách ăn ở của ta được. Phải có một Đấng cực khôn ngoan để chỉ đường giắt lối, phải có một Đấng thông biết vô cùng để bảo ban dẫn dậy, phải có một Đấng quyền phép tối cao để ra tay tế độ cho ta được, bất cứ là khi ta phải ở vào cảnh ngộ nào. Ta phải tìm đến với một Đấng không thể sai nhầm mà cũng chẳng hề lừa dối, một Đấng không bao giờ biến cải vậy.
Đấng độc nhất ấy, chính là Thiên Chúa. Cho được biết Chúa, ta chỉ cần phải nhìn nhận vạn vật Ngài đã tạo thành. Các vật ấy, cũng như chính Thiên Chúa, không bao giờ có thay đổi. Thánh kinh dậy cho ta biết rằng: khi Chúa tạo lập thiên địa thì Ngài thấy mọi sự đều thập phần hoàn mỹ, không còn phải canh cải gì nữa. Từ xưa đến nay, trên bầu trời vẫn có nhật, nguyệt và tinh tú; dưới quả đất vẫn sản ra các loài kim, vẫn sinh ra các cây cỏ cần dùng cho người ta. Loài vật, trước sau vẫn có bấy nhiêu giống, mà giống nào người ta thường nuôi để sai khiến hay để ăn thịt, cũng vẫn quanh quẩn bên người.
Cả đến loài người cũng vậy. Khi Chúa dựng nên người ta rồi thì nhận thấy người ta cũng như muôn vật, mà có khi lại hơn cả muôn vật, đã tốt đẹp lắm rồi, không còn phải thay đổi gì nữa. Xưa nay nhiều nhà triết học thấy trong đời có lắm nỗi tai ách, các sự khốn nạn nào có phải là Chúa sinh ra đâu, chính là vì loài người đã lạm dụng cái quyền tự do của mình mà tự gây nên. Người ta đã dùng cái ơn quí báu Đấng Chúa Tể đã phú cho ấy làm những việc tội lỗi; mà chính những tội lỗi là căn nguyên của mọi sự đau khổ ở thế giới này. Bỏ mọi sự tội lỗi ở cá nhân, ở gia đình, ở xã hội đi, thì ta sẽ thấy loài người khi vừa bởi tay Chúa mà ra, là một giống hoàn toàn và cũng như muôn vật Chúa không còn phải đổi thay gì nữa.
Đã dựng nên loài người như thế, có nhẽ nào Thiên Chúa lại không giúp đỡ cho người ta đạt được chí nguyện, thỏa được lòng khát vọng, không truyền dạy cho biết các chân lý phải tin theo, không phán bảo cho biết những qui tắc phải nói giữ cho hợp với đạo làm người ư? Không, không khi nào Chúa lại bỏ mặc người ta như vậy. Cho được nhận thấy điều ấy, ta cứ tìm ngay trong cảnh hỗn độn của các tôn giáo, sẽ thấy cái dấu riêng biệt của Thiên Chúa. Cũng như thế giới hữu hình này, tôn giáo của Chúa đã truyền dạy cũng không có đổi thay. Đâu đâu ta cũng chỉ thấy thờ có một Chúa, giữ có một nền luân lý, theo có một cách phụng sự để kính thờ, để cảm tạ các ân trạch của Đấng Chủ Tể càn khôn. Khắp trong thế giới, đâu đâu cũng có các chức vị giảng truyền như nhau, từ cách diễn giải giáo lý cho đến cách cử hành lễ nghi, cũng dập theo đúng một khuôn một mẫu, mà chỗ nào cũng thấy có một kết quả ấy, ban phát ra cho nhân loại một thứ ân trạch như nhau. Chẳng kỳ là ở bên châu Âu hay châu Á, châu Mỹ, châu Phi hay tận bên châu Úc, ở đâu thì tôn giáo chân chính cũng không đổi khác.
Trong quí vị đây, hẳn nhiều người đã từng du lịch qua nước này xứ khác, còn những ai chưa đi đâu xa thì ít là cũng đã xem sách mà biết rõ sự biến hóa của các nền văn minh kể từ khi mới có nhân loại. Vậy các Ngài hãy nói cho tôi biết các Ngài đã nhận có tôn giáo nào là tôn giáo từ trước chí sau vẫn giữ theo có một nguồn gốc, thờ kính có một đấng đã tạo thành và hằng quản trị vạn vật, không hề thay đổi trong cách phụng sự, trong lối nguyện cầu, trong nền luân lý chăng? Các Ngài hẳn chỉ trả lời tôi được rằng:
Cái tôn giáo chân chính, không bao giờ thay đổi ấy, là chính đạo Công Giáo. Người Công giáo kính thờ Thiên Chúa là chính đấng thông minh vô lượng, quyền phép vô biên, đã khai thiên lập địa. Xem một cái đồng hồ nhỏ, người ta đã phải khen ngợi sự tài tình của các tay thợ làm ra, huống hồ đứng trước vũ trụ này, khác nào một cái đồng hồ cực to lớn, mọi sự đều sắp đặt, chuyển vần theo một trật tự rất là kỳ diệu, thì lẽ nào lại không cúi đầu kính phục cái quyền phép vô cùng của Hóa Công? Thiên Chúa chẳng những là đã dựng nên muôn vật trên trời dưới đất. Ngài lại còn coi sóc đến mãi mãi gìn giữ cho luôn luôn nữa.
Các giới răn, Thiên Chúa đã in vào lòng mọi người tự khi vừa thoạt sinh ra ở đời này, mà Ngài lại đã hiện ra trên núi Sinai truyền dạy rõ ràng cho dân Do thái, thì ngày nay ở khắp mặt đất này, đâu đâu mặc lòng, Giáo hội cũng vẫn giảng dậy hợp theo như thế mãi. Cựu ước là cái hình bóng, là cuộc dự bị của Tân ước; mà Tân ước chính là phần tiếp nối, là cuộc thực hiện, bổ túc cho Cựu ước. Chính Đức Chúa Giêsu, trong sách Phúc âm đã dạy rằng: "Ta xuống thế gian này không phải là để phá bỏ lệ luật và lời các tiên tri trong Cựu ước, mà chính là để làm cho các điều ấy được trọn."
Đức Chúa Giêsu con Đức Chúa Trời đã ra đời để cứu chuộc và dạy dỗ chúng ta, thì chính là Đấng Cứu thế mà Đức Chúa Trời đã hứa cùng nguyên tổ loài người, là chính Đấng mà chẳng những trong Thánh kinh, lại khắp các sách vở, thơ ca, và trong cả tục truyền của các dân tộc đời xưa, đã mong mỏi và gọi là Đấng thiên hạ đợi trông.
Từ khi Đức Chúa Giêsu ra đời lập đạo cho tới ngày nay đạo Công giáo có thay đổi không? Tôi quả quyết nói với các bạn rằng: chẳng hề có thay đổi gì cả. Năm trước trong dịp sang La Mã, là chính chỗ nguồn gốc đạo Công giáo, tôi đã đi xem các di tích cũ. Dạo qua những hang ngầm dưới đất mà các giáo hữu buổi đầu, vì gặp kỳ bách hại quá ngặt nghèo nên đã phải đào để làm nơi hội họp, hay là viếng thăm các chỗ lâu đài, các ngôi thánh điện đã xây dựng lên từ buổi Giáo hội mới sơ khai, tôi đã xét ra mà so xánh với mọi sự hiện thời, thì vẫn thấy còn y theo một nề nếp cũ. Từ nền tảng giáo lý, từ khuôn mẫu luân lý, cho đến cả những nghi tiết trong việc phụng sự lễ nghi cũng vẫn chẳng hề có rời xa cái trật tự cốt yếu đã có từ mấy ngàn năm.
Trong cuộc hành trình ấy, tôi cũng đã qua chơi nhiều xứ. Ở Ấn Độ hay là ở kênh đào Suez, ở nước Ý cũng như ở nước Pháp, ở Palestine cũng như ở Ai Cập, đến nơi nào khi tôi làm lễ, tôi cũng thấy người ta bày bàn thờ, dọn các đồ lễ cũng như ở Bắc kỳ này. Đến chỗ nào tôi cũng nghe diễn giải về giáo lý, mà không hề có ở đâu là thấy một câu phản trái những điều chính tôi vẫn thường giảng khuyên. Trong khi tôi lưu lại ít ngày ở nước Pháp, nhiều tỉnh có lòng yêu mà mời tôi đến diễn thuyết. Tôi đã đăng đàn ở Marseille, Lyon, Angers, Strasbourg, ở chính quê hương của Đức Giám mục Bá Đa Lộc, về địa phận Besançon, và cả ở nhà thờ Đức Bà tại kinh thành Paris nữa. Hàng mấy trăm ngàn các thính giả của tôi ở các nơi đó, không hề có một ai bảo rằng tôi đã nói mảy may gì khác với sự tin tưởng của họ xưa nay.
Các bạn hãy cùng tôi đi khắp bao nhiêu thư viện riêng của các chức vị trong Giáo hội, khắp những kho sách rộng lớn của các Cao đẳng học đường Công giáo và của các Tu viện mà xem. Trong mấy mươi triệu quyển sách ở các nơi đó không hề có một quyển nào, bàn nói đến điều gì ngang trái với tôn chỉ của Công giáo. Được như thế, là vì xưa nay nếu có một quyển nào dầu hơi sai lạc, Giáo hội cũng lập tức ném bỏ ngay, khác nào ta phải giữ để rất cần thận với những chất độc có thể hại đến tính mệnh của mình vậy.
Vả lại, trước khi Đức Chúa Giêsu từ giã thế gian này, Ngài đã giặn các môn đồ rằng: "Các con phải thương yêu nhau. Đấy chính là dấu mà thiên hạ sẽ nhận biết các con là môn đồ của Ta." Lòng mến Chúa cùng với đức yêu người, chính là cái thuật mà tôi muốn nói ngay với các bạn khi tôi bảo các bạn phải đem tuổi 20 để làm gì. Tôi cũng xin hợp theo lời Đức Chúa Giêsu mà bảo các bạn rằng: Các bạn phải thương yêu nhau. Nhưng không phải là thương yêu nhau theo lòng yêu ích kỷ, chỉ tìm những sự am hợp với ý riêng mình đâu vì như thế không phải là thương yêu thật. Chính Đức Chúa Giêsu đã làm khuôn mẫu cho ta trong việc này: vì thương yêu ta mà Chúa đã đến phải chịu chết vì ta. Cái lòng yêu mến thật, chính là ở sự quên mình đi, biết chịu thiệt thòi, và cần ra thì có phải chịu đau khổ cũng đành nữa.
Đức thương yêu trong đạo Công giáo từ xưa đến nay cũng không hề có thay đổi. Bao giờ Công giáo cũng vẫn là cái tôn giáo chủ trì sự thương yêu. Mà xét theo cái dấu chúa đã phán bảo áy, ta sẽ thấy trong thiên hạ đâu đâu cũng có vô số môn đồ của Ngài. Những người ấy, bất cứ ở đâu cũng hợp nhau như một, không có phân kẻ giàu người nghèo, kẻ thông người dốt, không biệt bờ cõi, nòi giống. Tôi đã xem thấy các bạn trẻ Việt Nam đang du học ở bên Pháp, đã được các bạn Công giáo ở bên ấy quá mến như anh em một nhà. Tôi lại gặp một đoàn 200 người Trung Hoa và một đoàn 500 người ở về các miền bên Ấn Độ sang viếng Thánh địa, rồi đi du lịch qua Rome và Paris, mà đến đâu họ cũng phải cảm động vì thấy được anh em đồng đạo tiếp đãi rất ân cần, mật thiết.
Tấm lòng thương yêu của Chúa, như thúc giục, như vây bọc, như xoắn xuýt lấy ta! Có biết bao nhiêu vị thừa sai đã bỏ quê hương mà sang các miền dân giã xứ mình đây, hay đã vào tận những rừng sâu núi thẳm của đất Lào, mà sinh sống hàng mấy mươi năm rối đến chết vùi ở đấy. Các bạn hãy hỏi xem, tại sao mà các vị ấy đã chịu lìa xa cha mẹ, thân thuộc, xứ xở của mình. Các vị ấy sẽ trả lời cho các bạn hay rằng: chỉ vì một lòng mến Chúa và thương yêu linh hồn người ta thôi. Tại sao có những vị giáo sĩ, đã bỏ đời tốt đẹp của mình, mà vào ở trong bệnh viện để săn sóc những kẻ ôm đau, vào ở các trại phong để trông nom những người bệnh tật? Là cũng chỉ bởi các vị ấy coi mọi người như anh em một cha, nên khi thấy ai đau khổ thì hết lòng cứu giúp, chẳng nề quản nỗi gì. Tại sao các ông thầy Dòng trọn đời lại chuyên vào việc trông coi những trẻ côi cút, dậy dỗ cho hàng thiếu niên chẳng kỳ là hạng người nào. Tại sao các bà Phước đi khắp năm châu, nào lập nhà trường, nào dựng nhà thương, nào xây nhà nuôi những kẻ già nua cô độc? Tại sao? Chỉ tại những người ấy đã đem ra thực hành điều đấng Cứu Thế đã răn dạy: "Các con phải thương yêu nhau." Từ xưa đến nay cái lòng mến Chúa và cái đức yêu người cũng không hề có đổi thay. Thật là mọi sự đều tốt đẹp, đều hoàn toàn vậy.
Các bạn rất yêu quí! Bây giờ các bạn cũng đã biết như tôi rồi. Sinh ra ở đời này, muốn được sung sướng muốn làm ích cho gia đình, cho xã hội, thì chỉ có một phương thế mà thôi, là: phải biết giúp đỡ kẻ khác, phải biết bỏ mình đi, phải biết chịu thiệt thòi đau khổ, tóm lại phải biết thương yêu nhau vậy
Ta phải mến Chúa trước hết đã, vì bởi lòng yêu mến mà Chúa đã sinh ra loài người và lo liệu cho ta có đủ mọi sự cần dùng. Rồi, ta lại phải thương đến người đồng loại, nhưng không phải chỉ thương môi thương mép, mà phải lấy việc làm để chứng tỏ cái đức ấy ra ngoài nữa mới được.
Nói như thế, không phải là tôi bảo các bạn đây phải dâng mình đi mở đạo, phải đi làm khán hộ hay là vào dòng khấn tu cả đâu. Không, tôi chẳng bảo các bạn phải ra khỏi cái địa vị trong xã hội của mỗi người, tôi chỉ xin các bạn làm sao cho những người ở gần gũi ngay chung quanh mình đều nhiễm được cái tinh thần hòa thuận, liên hợp và tương cưu tương trợ lẫn nhau, để làm ích được cho cả đoàn thể, cả xã hội.
Đọc lịch sử, các bạn sẽ biết rằng: đạo Công giáo đã cải tạo Tây phương. Chỉ xem vào công cuộc ấy cũng đủ cho các bạn nhận thấy các giáo hữu và các vị giáo sĩ xưa nay bao giờ cũng giầu lòng quyết định, sẵn óc phương pháp, lại vừa khéo dung hòa vừa biết hy sinh để làm việc.
Trong các bạn đây, những ai chưa cùng với chúng tôi chung một sự tín ngưỡng, chúng tôi chẳng dám bảo là phải theo cả về đạo chúng tôi ngay. Đó là một việc phải có ơn của Thiên Chúa mới được, nhưng tôi chắc rằng rồi đây, chẳng bao lâu nữa, Chúa sẽ gọi đưa một vài người trong các bạn nhập vào Công Giáo hội. Ngay bây giờ, chúng tôi chỉ xin các bạn hãy đồng tâm hợp lực với Giáo hội, để tìm phương giải quyết những cái vấn đề khó khăn trong xã hội hiện thời. Trong tạp chí "Đông Dương xã hội hành động", là một cái cơ quan rất có thế giá của anh em học sinh Việt Nam dang du học ở Pháp, số tháng giêng năm 1934 đã có nói hẳn rằng: "Nếu chúng ta nhờ đến cái ánh sáng của Hội thánh Công Giáo, thì mới giải quyết được những vấn đề khó khăn của xã hội hiện thời... Giáo hội truyền dạy cho ta những cái nguyên lý và chỉ dẫn, cho những cách thế rất khôn ngoan và công chính, có thể dung hòa được cả những lợi quyền rất tương phản. Vậy cái bổn phận của chúng ta há lại chẳng theo Giáo hội cho khỏi lạc xa đường thật lối chính hay sao? Cái đức bác ái của Thiên Chúa Giáo, há chẳng buộc ta phải đem những điều ấy mà truyền bá ra cho khắp trong anh em, để cho các bạn hữu, các người đồng hương với ta cũng được nhờ đó sao?"
Sau hết, kết thúc bài diễn thuyết rất hữu ích cho bạn trẻ này, Đức Giám mục tiên khởi Việt Nam đã thuật lại một đoạn chính văn của Cha Morawski, rằng: "Đời thượng cổ có một cái tục khi hai người giao kết bạn bè với nhau, thì lấy một mảnh đá đập vỡ đôi ra, mỗi bên giữ một phần. Về sau, có phải xa cách nhau lâu năm, đến khi lại được gặp thì hai bên cùng đưa cái ghi tích cũ ấy ra. Nếu hai mảnh đá ăn khớp nhau, thi hai người nhận được nhau là chỗ tình xưa nghĩa cũ. Ở giữa linh hồn nhân loại và đạo Thiên Chúa, cũng thấy có đều tương ám như thế. Lang thang trong bao nhiêu thế kỷ để tìm một tôn giáo thích hợp với bản tính của mình, vơ vẩn mãi khắp đó đây để mưu cầu cho có phương thế mà được kết hợp cùng Thiên Chúa, linh hồn nhân loại đã níu lấy biết bao là tôn giáo, đã bám vào bao nhiêu là tín ngưỡng, đã hùa theo bao nhiêu là môn triết lý... Nhưng, cái thì chẳng vừa với lòng ái mộ sự thánh thiện, cái thì không làm cho thỏa được nỗi khát vọng sự chân chính, kiếm tìm đã lắm mà linh hồn nhân loại vẫn chẳng thấy cái gì đúng như sở ước.
Mãi cho đến khi được nghe giảng truyền về đạo Thiên Chúa, bấy giờ mới là lần thứ nhất mà linh hồn nhân loại được gặp cái tôn giáo hợp với lòng ước mong, đúng với tâm trí, với tính tình, với cái lý tưởng thiện mỹ của mình. Bấy giờ linh hồn mới nhận thấy một phần thứ hai nữa của cái 'toàn bản' (tessera) đã tự chính tay Đấng Chủ tể càn khôn tạo thành. Mà từ đấy linh hồn nhân loại đã đem hết cả bao nhiêu sức lực của mình để dốc một niềm tin theo với đạo Thiên Chúa, và mới thấy được sự vui mừng sung sướng mà trước kia chưa từng biết vậy."
Những tin cũ hơn